Cá rô đầu vuông là gì? Các công bố khoa học về Cá rô đầu vuông

"Cá rô đầu vuông" là một loài cá biển thuộc họ Cá rô, có hình dáng đặc trưng với đầu hơi vuông và mỏ nhọn. Loài này thường sống ở vùng nước nông, gần bờ biển và...

"Cá rô đầu vuông" là một loài cá biển thuộc họ Cá rô, có hình dáng đặc trưng với đầu hơi vuông và mỏ nhọn. Loài này thường sống ở vùng nước nông, gần bờ biển và thường được ngư dân đánh bắt để sử dụng làm thực phẩm. Cá rô đầu vuông có thân hình mảnh mai, dẹp bên, có màu xám nâu và có vân sắc nét trên thân. Đây là một loài cá phổ biến ở các vùng biển nhiệt đới và ôn đới.
"Cá rô đầu vuông" cũng được biết đến với tên gọi tiếng Anh là "squarehead grunt" hoặc "bluestriped grunt". Loài cá này thường xuất hiện trong số đàn lớn và thường sống gần các cấu trúc ngập nước như rạn san hô, đáy biển hoặc đá ngầm. Chúng thường săn mồi trong các khe đá và hốc đá, ăn tảo và các loại động vật phù du.

Cá rô đầu vuông thường có kích thước trung bình từ 20 đến 30 cm, tuy nhiên cũng có thể đạt đến kích thước lớn hơn. Chúng có thể di chuyển ở các vùng nước sâu đến mức 70 mét.

Ở một số nơi, loài cá này cũng được nuôi trong những hồ cá cảnh vì vẻ ngoại hình đẹp và hình thức hoạt động tích cực khi chúng bơi qua lại trong hồ.
Tính đến nay, chưa có báo cáo về việc cá rô đầu vuông được sử dụng trong y học hay nghiên cứu khoa học một cách đáng kể. Tuy nhiên, như một loài cá biển, nó chắc chắn đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì cân bằng sinh thái trong hệ sinh thái biển. Việc bảo vệ và duy trì môi trường sống tự nhiên của cá rô đầu vuông là rất quan trọng để đảm bảo sự đa dạng sinh học và ổn định của hệ sinh thái biển.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "cá rô đầu vuông":

Cụm gia đình ba ca bệnh đậu mùa khỉ nhập khẩu từ Nigeria đến Vương quốc Anh, tháng 5 năm 2021 Dịch bởi AI
Eurosurveillance - Tập 26 Số 32 - 2021

Hầu hết các ca bệnh đậu mùa khỉ ở người được báo cáo xảy ra ở Trung và Tây Phi, nơi virus gây bệnh là bản địa. Chúng tôi mô tả việc xác định và phản ứng của y tế công cộng đối với một ca bệnh đậu mùa khỉ Tây Phi được nhập khẩu từ Nigeria đến Vương quốc Anh (UK) vào tháng 5 năm 2021. Việc lây truyền thứ cấp từ ca bệnh chỉ điểm đã xảy ra trong gia đình đến một người lớn khác và một trẻ nhỏ. Các biện pháp kiểm soát liên quan đến COVID-19 được thực hiện ngay khi nhập cảnh và tại bệnh viện đã giúp phát hiện và hạn chế số lượng tiếp xúc tiềm tàng.

#đậu mùa khỉ #ca bệnh nhập khẩu #Nigeria #Vương quốc Anh #lây truyền thứ cấp #COVID-19.
WALY ở đâu? : Một nghiên cứu dự chứng minh về ‘năm sống điều chỉnh theo sự thịnh vượng’ sử dụng phân tích thứ cấp từ dữ liệu khảo sát cắt ngang Dịch bởi AI
Health and Quality of Life Outcomes - Tập 14 - Trang 1-9 - 2016
Năm sống điều chỉnh chất lượng (QALY) là một thước đo kết hợp giữa việc kéo dài cuộc sống và cải thiện sức khỏe trong một chỉ số duy nhất, phản ánh ưu tiên xung quanh các loại thu lợi sức khỏe khác nhau. Do đó, nó có thể được sử dụng để quyết định phân bổ tài nguyên chăm sóc sức khỏe cho các phương án độc quyền khác nhau, mang lại những lợi ích sức khỏe qualitatively khác nhau. Nhiều công cụ đo chất lượng cuộc sống có thể được sử dụng để tính toán QALYs. EQ-5D là một trong những công cụ phổ biến nhất và là lựa chọn được ưu tiên cho các hồ sơ gửi tới NICE (https://www.nice.org.uk/process/pmg9/). Tuy nhiên, nó có những hạn chế có thể khiến nó không thích hợp để sử dụng trong các lĩnh vực như sức khỏe cộng đồng và sức khỏe tâm thần, nơi các can thiệp có thể nhằm mục đích cải thiện sự thịnh vượng. Một sự thay thế cho QALY là Năm sống điều chỉnh theo sự thịnh vượng (WALY). Trong nghiên cứu này, chúng tôi khám phá nhu cầu về một thước đo Năm sống điều chỉnh theo sự thịnh vượng bằng cách xem xét mức độ mà một thước đo sự thịnh vượng (Thang đo Sức khỏe Tâm thần Warwick-Edinburgh) tương ứng với EQ-5D-3L. Các phân tích thứ cấp được thực hiện trên dữ liệu từ Khảo sát Hộ gia đình Coventry trong đó 7469 người tham gia hoàn thành EQ-5D-3L, Thang đo Sức khỏe Tâm thần Warwick-Edinburgh, và một thước đo sức khỏe tự đánh giá. Dữ liệu đã được phân tích bằng thống kê mô tả, tương quan Pearson và Spearman, hồi quy tuyến tính, và đường cong đặc tính hoạt động của bộ thu nhận. Khoảng 75% người tham gia đã đạt điểm tối đa trên EQ-5D-3L. Những người có điểm EQ-5D-3L tối đa đã báo cáo một loạt các mức độ sức khỏe tâm thần. Cả Thang đo Sức khỏe Tâm thần Warwick-Edinburgh và EQ-5D-3L đều có khả năng phát hiện sự khác biệt giữa những người có mức độ sức khỏe tự báo cáo cao và thấp. Hồi quy tuyến tính cho thấy điểm số trên Thang đo Sức khỏe Tâm thần Warwick-Edinburgh và EQ-5D-3L có mối tương quan dương nhưng yếu (với R2 là 0.104 cho chỉ số và 0.141 cho thang điểm hình ảnh). Thang đo Sức khỏe Tâm thần Warwick-Edinburgh tương ứng với EQ-5D-3L chỉ ở mức độ hạn chế. Mức độ thịnh vượng tâm thần rất khác nhau giữa những người tham gia có điểm tối đa trên EQ-5D-3L. Để đánh giá hiệu quả tương đối của các can thiệp ảnh hưởng đến sự thịnh vượng tâm thần, cần một thước đo mới - Năm sống điều chỉnh theo sự thịnh vượng (WALY).
#Năm sống điều chỉnh theo sự thịnh vượng #Năm sống điều chỉnh chất lượng #EQ-5D #Thang đo Sức khỏe Tâm thần Warwick-Edinburgh #Sức khỏe tâm thần #Khảo sát cắt ngang
DẤU ẤN CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC TRONG TRUYỆN NGẮN NAM BỘ ĐẦU THẾ KỈ XX: TRƯỜNG HỢP SƠN VƯƠNG
  Sơn Vương là một trong số ít tác giả có thể xem là thành công với thể loại truyện ngắn trong giai đoạn đầu thế kỉ XX ở Nam Bộ. Truyện của ông hấp dẫn từ nội dung đến nghệ thuật, văn phong trong sáng và dễ hiểu nên phù hợp với người bình dân thời đó. Cho đến bây giờ, những truyện ngắn của Sơn Vương vẫn hấp dẫn người đọc ở cách tiếp cận vấn đề, cách đặc tuyển những chi tiết, tình tiết đặc tả tâm tư, tình cảm, tính cách, con người và cuộc sống của cư dân vùng đất Nam Bộ. Bài viết này tập trung tìm hiểu mười hai truyện ngắn của Sơn Vương (tức nhà văn tướng cướp Trương Văn Thoại) được sưu tầm, nghiên cứu, tập hợp trong tuyển tập Sơn Vương – Nhà văn – Người tù thế kỉ (Nxb Văn học, 2007) nhằm xác quyết dấu ấn của chủ nghĩa hiện thực giai đoạn này thông qua thể loại truyện ngắn trong sáng tác của ông.    
#chủ nghĩa hiện thực #Sơn Vương #truyện ngắn
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU SAU PHẪU THUẬT LẤY THAI BẰNG KỸ THUẬT GÂY TÊ CƠ VUÔNG THẮT LƯNG DƯỚI HƯỚNG DẪN CỦA SIÊU ÂM TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA QUỐC TẾ VINMEC PHÚ QUỐC
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau sau mổ lấy thai bằng kỹ thuật gây tê cơ vuông thắt lưng dưới hướng dẫn của siêu âm; Tìm hiểu một số tác dụng không mong muốn của kỹ thuật gây tê cơ vuông thắt lưng dưới hướng dẫn của siêu âm. Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu can thiệp, mô tả cắt ngang, không đối chứng. Kết quả: Về hiệu quả và thời gian giảm đau: Thời gian bắt đầu tác dụng giảm đau trung bình 12,68 ± 86,02 phút. Thời gian thuốc có tác dụng giảm đau: Từ 0 - 5giờ: 06%; Từ 6 - 10 giờ: 18%; Từ 11 - 15 giờ: 26%; Từ 16 - 20giờ: 12%; Từ 20 giờ trở lên: 38%. Hiệu quả giảm đau sau mổ lấy thai bằng phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng ở mức độ rất tốt và tốt là 100%. Thời gian tác dụng giảm đau kéo dài 16,12 ± 6,82 giờ, (ii) Tác dụng phụ của thuốc và tại biến của kỹ thuật: Không có tai biến, biến chứng nào nghiêm trọng. Tác dụng phụ buồn nôn, nôn là 3%; lạnh run là 5%. Kết luận: Gây tê cơ vuông thắt lưng để giảm đau sau mổ lấy thai rất có hiệu quả và an toàn cho sản phụ.
#Giảm đau #phẫu thuật lấy thai #gây tê cơ vuông thắt lưng #hướng dẫn bằng siêu âm
Ảnh hưởng của liều lượng LHRHa đến kết quả sinh sản trên cá rô đầu vuông (Anabas testudineus)
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang - Số 04 - Trang 024-034 - 2022
  Nghiên cứu này nhằm đánh giá ảnh hưởng của liều lượng tiêm LHRHa đến thời gian hiệu ứng thuốc (TGHƯ), tỷ lệ đẻ (TLĐ), sức sinh sản hữu hiệu (SSS), tỷ lệ thụ tinh (TLTT), tỷ lệ nở (TLN), tỷ lệ sống (TLS) cá bột cá rô đầu vuông (Anabas testudineus). Cá cái thành thục (377,8 - 391,3 g/con) được tiêm LHRHa với 5 liều, lần lượt là 40, 60, 80, 100, 120 µgLHRHa (kết hợp với 5mg DOM-domperidon)/kg), tương ứng với 5 nghiệm thức (NT): NT40, NT60, NT80, NT100 và NT120. Cá đực tiêm ½ so với liều cho cá cái. Ngoài ra, 1 NT tiêm NaCl (0,9%) được sử dụng để làm NT đối chứng (ĐC). Kết quả cho thấy cá ở ĐC không sinh sản sau 24 giờ. Liều tiêm LHRHa ảnh hưởng đến TGHƯ, TLĐ, SSS, TLTT, TLN, TLS của cá bột mới nở (TLS) (P<0,05). Nghiệm thức NT80 và NT100 cho tỷ lệ đẻ 100%, cao hơn các nghiệm thức còn lại. TGHƯ ở NT40 (7,4±0,5 giờ) và NT60 (7,2±0,5 giờ) dài hơn các nghiệm thức khác. SSS lớn nhất là ở NT120 (616,8±54,1 trứng/g cá cái). Tuy nhiên, TLTT, TLN, TLS của ấu trùng 1 ngày tuổi ở NT120 là thấp nhất. NT80 và NT100 không sai khác có ý nghĩa thống kê về các chỉ tiêu sinh sản nói trên. Do đó, trong thực tế sản xuất, chỉ cần tiêm 80 µgLHRHa cho cá rô đầu vuông cái tại Khánh Hòa.
#Cá rô đầu vuông #LHRHa #hormone #sức sinh sản
Ảnh hưởng của phương pháp cho ăn gián đoạn đến sinh trưởng, sống sót và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá rô đầu vuông (Anabas testudineus Bloch, 1792)
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả của phương pháp cho ăn gián đoạn trong nuôi thương phẩm cá rô đầu vuông (Anabas testudineus Bloch, 1792). Cá rô đầu vuông giống có trọng lượng trung bình 2,91±0,41(g) được bố trí nuôi trong 9 bể xi măng (300L) trong 60 ngày với 3 nghiệm thức: (1) cho cá ăn theo nhu cầu 2 lần/ngày (NT1); (2) cho cá ăn theo nhu cầu 7 ngày ngừng 2 ngày (NT2); (3) cho cá ăn theo nhu cầu 7 ngày ngừng 3 ngày (NT3). Sau 60 ngày nuôi, cá ở NT1 có trọng lượng cao nhất (19,65g), trọng lượng cá giữa NT2 (14,48g) và NT3 (14,08g) không có sự khác nhau về ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ sống của cá giữa các nghiệm thức không khác nhau và dao động từ 97,50 – 99,17%.Tương tự, hiệu quả sử dụng thức ăn (FCE) và hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR) giữa các nghiệm thức cũng không có sự khác biệt về mặt thống kê. Như vậy, có thể nói rằng, phương pháp cho ăn gián đoạn không đem lại hiệu quả trong nuôi thương phẩm cá rô đầu vuông.
#Cá rô đầu vuông #cho ăn gián đoạn #phương pháp cho ăn #nuôi thương phẩm #sinh trưởng
Khử hạt nhân của các protoplast thu được từ các văn hóa treo của đậu cánh và từ một dòng tế bào u vương miện của Parthenocissus tricuspidata Dịch bởi AI
Institute of Experimental Botany - Tập 30 - Trang 401-408 - 1988
Các protoplast được thu nhận từ các nền văn hóa treo của đậu cánh và một dòng tế bào u vương miện của Parthenocissus tricuspidata đã được khử hạt nhân bằng cách ly tâm trên các gradient Percoli không đồng nhất iso-osmotic và trên các gradient mật độ sucrose-mannitol không đồng nhất. Quá trình khử hạt nhân được thực hiện dựa trên mật độ nổi của các protoplast và cả hai loại cytoplast và miniprotoplast đã được thu hồi. Các gradient Percoll cho kết quả tốt hơn so với các gradient sucrose-mannitol. Quá trình khử hạt nhân được gia tăng khi tăng lực ly tâm từ 20 kg lên 60 kg. Sự hiện diện của các nhân tế bào được xác định bằng đầu dò DNA đặc hiệu 4′6-diamidino-2-phenylindole (DAPI). Tính toàn vẹn màng, được đo bằng cách nhuộm với fluorescein diacetate, cho thấy khoảng 85 % cytoplast được bao bọc bởi một màng plasma nguyên vẹn.
Ảnh hưởng của mật độ nuôi lên tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá rô đầu vuông (Anabas testudineus) nuôi tại tỉnh Quảng Bình
Thí nghiệm được thực hiện nhằm xác định mật độ thích hợp cho giai đoạn nuôi thương phẩm cá rô đầu vuông (Anabas testudineus). Cá được nuôi ở 3 mật độ khác nhau (15 con/m2; 25 con/m2 và 35 con/m2). Kết quả cho thấy sự tăng trưởng khối lượng cá ở nghiệm thức I (15 con/m2) và II (25 con/m2) cao hơn ở nghiệm thức III (35 con/m2) sau 4 tháng nuôi (p<0,05). Tương tự, tỷ lệ sống của cá đạt cao nhất ở nghiệm thức I (84,3%) và thấp nhất ở nghiệm thức III (82,7%) (p>0,05). Ở mức mật độ 15 con/m2, cá tăng trưởng tốt nhất với trọng lượng trung bình 157,3 g/con, tốc độ tăng trưởng đạt 1,3 g/ngày. Nói chung, nuôi thâm canh cá rô đầu vuông với mật độ 15 - 25 con/m2 làm cho cá tăng trưởng tốt hơn.
#Anabas testudineus #squared-head climbing perch #density #growth #survival rate
ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG GIẢM ĐAU SAU PHẪU THUẬT LẤY THAI CỦA PHƯƠNG PHÁP GÂY TÊ CƠ VUÔNG THẮT LƯNG HAI BÊN LIỀU DUY NHẤT DƯỚI HƯỚNG DẪN SIÊU ÂM VỚI HỖN HỢP ROPIVACAIN - DEXAMETHASON
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 64 Số 3 - 2023
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật lấy thai của phương pháp gây tê cơ vuông thắtlưng hai bên liều duy nhất dưới hướng dẫn siêu âm với hỗn hợp ropivacain - dexamethason.Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành trên 60 sản phụ được gây tê tủy sống mổ lấythai chủ động tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội, được giảm đau sau mổ bằng gây tê cơ vuông thắt lưnghai bên liều duy nhất dưới hướng dẫn siêu âm, chia ngẫu nhiên thành hai nhóm: Nhóm D sử dụnghỗn hợp 20ml ropivacain 0,2% + 1ml dexamethason (2mg) mỗi bên so với nhóm R sử dụng hỗn hợp20ml ropivacain 0,2% + 1ml NaCl 0.9% mỗi bên.Kết quả: Nghiên cứu cho thấy gây tê cơ vuông thắt lưng hai bên (QLB) liều duy nhất với hỗn hợpRopivain- Dexamethason có hiệu quả giảm đau tốt hơn so với sử dụng Ropivacain đơn thuần: điểmđau VAS khi nghỉ và khi vận động tại các thời điểm 48 giờ sau phẫu thuật của nhóm D đều thấp hơnnhóm R và đều dưới 4 điểm; thời gian giảm đau của nhóm D kéo dài hơn nhóm R có ý nghĩa thốngkê (1083,8 phút với 610,67 phút; p<0.05); lượng morphin tiêu thụ trong 24 giờ đầu của nhóm D thấphơn nhóm R có ý nghĩa thống kê (4,47 vs 7,4 mg, p<0.05).Kết luận: Gây tê cơ vuông thắt lưng hai bên liều duy nhất dưới hướng dẫn siêu âm với hỗn hợpRopivacain- dexamethason có tác dụng giảm đau tốt hơn so với Ropivacain đơn thuần.
#Gây tê cơ vuông thắt lưng #phẫu thuật lấy thai #ropivacain- dexamethason.
Tổng số: 9   
  • 1